Phẫu Thuật Thu Nhỏ Ngực Hoặc Tạo Hình Ngực Thẩm Mỹ

Tài liệu này đã được Hiệp hội giải phẫu thẩm mỹ và tạo hình của Pháp (Societe Francaise de Chirurgie Plastique Reconstructrice et Esthetique (SOFCPRE) thông qua, được sử dụng để bổ sung cho những thông tin mà bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ đã giải thích cho bệnh nhân trong lần khám đầu tiên, cũng như để giải đáp những câu hỏi mà bệnh nhân có thể có khi quyết định thực hiện phẫu thuật thu nhỏ ngực

Trong tài liệu này có tất cả những thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định của bệnh nhân, những thông tin liên quan đến thủ thuật phẫu thuật này. Do đó, chúng tôi khuyến cáo bệnh nhân nên đọc kỹ tài liệu này.

Định nghĩa

Ngực phì đại là ngực có kích thước lớn hơn nhiều so với kích thước thông thường, nhất là so với hình thể của bệnh nhân. Ngực quá lớn thường hay bị chảy xệ, lệch hoặc không cân xứng.

Ngực phì đại thường gây ra các vấn đề về thể chất và chức năng (đau cổ, vai và lưng, khó khăn khi chơi thể thao, mặc quần áo). Ngực phì đại còn gây ảnh hưởng lớn về mặt tâm lý. Chính những tác động trên mà việc phẫu thuật ngực phì đại có thể được các công ty bảo hiểm xem xét chi trả.

Mục đích

Phẫu thuật này nhằm thu gọn ngực, khắc phục tình trạng ngực bị chảy xệ và điều chỉnh lại 2 bên ngực cho cân đối, phù hợp với hình thể của bệnh nhân (thu nhỏ ngực, nâng ngực, điều chỉnh cho đều và tạo hình ngực).

Nguyên tắc

Phẫu thuật này nhằm cắt bớt tuyến vú thừa để thu gọn ngực đến một kích thước hài hoà với vóc dáng và mong muốn của bệnh nhân. Thể tích tuyến vú còn lại sẽ được nâng, thu gọn và tạo hình thẩm mỹ lại.

Lớp da ngực sau đó sẽ được điều chỉnh theo bằng cách cắt bỏ bớt da thừa để tạo đường cong gợi cảm cho bầu ngực mới. Các vết cắt sau đó sẽ được khâu lại, và sẹo sẽ hình thành tại những chỗ được khâu.

Sẹo thường có hình chữ T ngược gồm 3 phần: đường viền quanh quầng vú giữa vùng da nâu của quầng vù và da trắng của vú, đường dọc từ cực dưới của quầng vú đến nếp gấp dưới vú, và đường ngang giấu dưới nếp gấp da của bầu ngực.

Chiều dài của sẹo sẽ tương ứng với mức độ phì đại và chảy xệ của vú.

Đối với những trường hợp có mức độ phì đại và sa trễ vừa phải, có thể áp dụng phương pháp “đường rạch dọc”, như thế sẽ không để lại sẹo nằm ngang nếp gấp  phía dưới vú và thu nhỏ được sẹo quanh quầng vú và sẹo dọc.

Độ tuổi thích hợp để thực hiện phẫu thuật là vào cuối giai đoạn dậy thì hoặc sau tuổi dậy thì và trong suốt quãng thời gian còn lại.

Sau phẫu thuật thu nhỏ ngực, bệnh nhân vẫn có thể có thai và cho con bú, nhưng bệnh nhân nên chờ ít nhất 6 tháng mới nên có thai và cho con bú.

Phẫu thuật này không làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Trước khi phẫu thuật

Khám tiền phẫu theo chỉ định của bác sĩ.

Bệnh nhân sẽ được bác sĩ gây mê khám muộn nhất là 48 tiếng trước phẫu thuật.

Ngoài các xét nghiệm tiền phẫu thông thường, có thể cần thực hiện thêm các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh (như chụp nhũ ảnh, siêu âm)

Bệnh nhân phải ngưng hút thuốc ít nhất một tháng trước phẫu thuật hoặc một tháng sau phẫu thuật (do thuốc lá có thể làm sẹo lâu lành).

Bác sĩ có thể sẽ yêu cầu bệnh nhân ngưng uống thuốc ngừa thai, nhất là khi bệnh nhân có các bệnh liên quan có thể gây nguy cơ (béo phì, tình trạng suy tĩnh mạch, rối loạn đông máu).

Không dùng thuốc chứa có aspirin trong 10 ngày trước phẫu thuật.

KỸ THUẬT GÂY MÊ VÀ THỜI GIAN NẰM VIỆN

Kỹ thuật gây mê: Phẫu thuật này được thực hiện dưới gây mê toàn thân, bệnh nhân sẽ ngủ trong suốt thời gian mổ.

Thời gian nằm viện: Thông thường, bệnh nhân sẽ nằm viện từ 1 đến 3 ngày (bệnh nhân thường được yêu cầu nhập viện 1 đêm trước ngày phẫu thuật)

Thủ thuật phẫu thuật

Mỗi bác sỹ phẫu thuật đều có kỹ thuật riêng cho từng trường hợp để làm sao đem lại kết quả tốt nhất. Tuy nhiên có một số nguyên tắc chung như sau:

Các mô đã cắt bỏ sẽ được gửi đến một phòng xét nghiệm chuyên sâu để xét nghiệm dưới kính hiển vi (nghiên cứu mô học);

Sau khi phẫu thuật xong, bệnh nhân sẽ được băng bó bằng một loại băng co giãn có tác dụng giống như một chiếc áo ngực;

Tùy phẫu thuật viên và tùy mức độ phì đại mà ca phẫu thuật có thể kéo dài từ 2 đến 4 tiếng.

Sau khi hậu phẫu: kết quả phẫu thuật

Thông thường bệnh nhân sẽ thấy hơi đau sau phẫu thuật, và có thể sử dụng thuốc để giảm đau.

Sưng, bầm ngực sau mổ và giơ tay khó là những biểu hiện thường thấy sau phẫu thuật thu nhỏ ngực.

Bệnh nhân được thay băng sau 48 tiếng bằng một loại băng nhẹ hơn, có tác dụng như một chiếc áo ngực đàn hồi, được chỉnh theo số đo của bệnh nhân.

Sau 1 đến 3 ngày bệnh nhân được xuất viện và tái khám sau 4 đến 7 ngày.

Bệnh nhân nên mặc áo ngực vừa vặn để đảm bảo ngực được nâng đỡ tốt.

Nên mặc áo ngực như thế cả ngày lẫn đêm trong khoảng một tháng trong thời gian hồi phục.

Nếu không khâu bằng chỉ tự tiêu thì trong khoảng ngày thứ 8 đến 20 sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được cắt chỉ.

Bệnh nhân nên nghỉ ngơi và ngưng làm việc trong 8 đến 15 ngày sau phẫu thuật.

Chỉ nên chơi thể thao sau 1 đến 2 tháng sau phẫu thuật.

Kết quả phẫu thuật

Chỉ có thể thấy rõ kết quả phẫu thuật sau 1 năm khi đường cong của bầu ngực trở nên hài hòa hơn, cân đối hoặc tương đối cân đối và tự nhiên hơn. Ngoài ra, phẫu thuật này còn giúp cân đối cân nặng của bệnh nhân, thuận lợi cho các hoạt động thể chất, ăn mặc và cải thiện tâm lý.

Bệnh nhân nên kiên nhẫn chờ cho sẹo lành hẳn, tuân thủ chế độ theo dõi trong thời gian lành sẹo và đi tái khám từ 3 đến 6 tháng/lần trong 1 năm. Ngực được thu nhỏ sẽ dần tự nhiên và đặc biệt là sẽ nhạy với những thay đổi về hoóc môn.

Mục đích của phẫu thuật này là nhằm cải thiện chứ không hướng đến một sự hoàn hảo nào cả. Nếu mong muốn của bệnh nhân đủ thực tế, thì kết quả sẽ làm cho bệnh nhân hài lòng.

Kết quả không mong muốn

Quá trình lành sẹo cần được theo dõi cẩn thận: sẹo sẽ có màu hồng và sưng trong 2 đến 3 tháng sau phẫu thuật. Nhưng sau đó, sẹo sẽ mờ đi từ từ và khó thấy. Tuy nhiên sẹo có thể lớn, có màu trắng hoặc nâu.

Sẹo sẽ chỉ mờ dần theo thời gian chứ không hoàn toàn biến mất. Bác sỹ phẫu thuật là người khâu, nhưng liền sẹo lại là một quá trình liên quan đến bệnh nhân.

Trong một số trường hợp, hai bên ngực có thể không cân đối về kích thước, chiều cao, thể tích hay hướng của núm vú.

Trong mọi trường hợp, ngực không cân xứng đều có thể điều chỉnh được bằng cách phẫu thuật lại nhưng phải sau ít nhất 1 đến 2 năm.

Những biến chứng có thể gặp

Phẫu thuật thu nhỏ ngực phì đại, ngay cả khi được thực hiện nhằm mục đích thẩm mỹ, cũng là một thủ thuật phẫu thuật đích thực, nên vẫn chứa những rủi ro liên quan về mặt y khoa, dù nặng nhẹ đến đâu.

Những biến chứng liên quan đến phẫu thuật hoặc những biến chứng về mặt thẩm mỹ có thể xảy ra như:

  • Rủi ro liên quan đến gây mê: bác sỹ gây mê sẽ thông báo tất cả những rủi ro liên quan đến gây mê cho bệnh nhân biết. Nên biết rằng gây mê có thể gây ra những phản ứng không lường của cơ thể và rất khó kiểm soát. Theo thống kê, một bác sỹ gây mê giàu kinh nghiệm có thể giúp hạn chế các rủi ro đó trong phẫu thuật.

Trên thực tế, các kỹ thuật, sản phẩm gây mê và phương pháp theo dõi gây mê đã phát triển đáng kể từ hơn 20 năm qua, đem lại sự an toàn tối đa, nhất là đối với những ca phẫu thuật không thuộc dạng cấp cứu và sức khoẻ của bệnh nhân tốt.

  • Rủi ro liên quan đến phẫu thuật: một bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ giỏi và có kinh nghiệm thực hiện thủ thuật phẫu thuật này sẽ hạn chế được, chứ không thể hoàn toàn loại trừ, những rủi ro liên quan đến phẫu thuật.

May mắn là biến chứng ít khi xảy ra trong những ca phẫu thuật thu nhỏ ngực phì đại được thực hiện một cách đúng đắn. Trên thực tế, phần lớn các ca phẫu thuật thu nhỏ ngực đều diễn ra tốt đẹp và bệnh nhân đều hài lòng với kết quả phẫu thuật.

Mặc dù ít xảy ra, bệnh nhân cũng cần biết những biến chứng có thể xảy ra sau:

  • Huyết khối (viêm tĩnh mạch, nghẽn mạch phổi), dù rất hiếm xảy ra nhưng lại là những biến chứng đáng ngại nhất. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt có thể hạn chế được các biến chứng này: đeo vớ chống thuyên tắc tĩnh mạch, tập vận động sớm sau mổ tùy theo chế độ điều trị kháng đông;
  • Nhiễm trùng: điều trị bằng kháng sinh và phẫu thuật dẫn lưu nếu cần;
  • Tụ máu: thường được điều trị bằng cách lấy máu ra;
  • Một số trường hợp có thể lâu lành sẹo, do vậy sẽ kéo dài thời gian hồi phục sau mổ;
  • Hoại tử da hoặc hoại tử tuyến thường ít xảy ra đối với những kỹ thuật tiên tiến và có thể làm sẹo lâu lành (hút thuốc sẽ kéo dài quá trình lành sẹo);
  • Thay đổi cảm giác, nhất là cảm giác ở núm vú nhưng thường sẽ có lại cảm giác sau 6 đến 18 tháng;
  • Quá trình liền sẹo có thể không thuận lợi do xuất hiện sẹo lồi không lường trước được, gây ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ và cần phải được điều trị tại chỗ trong một thời gian dài.

Do đó, trong đa số các trường hợp thực hiện loại phẫu thuật, nếu nghiên cứu kỹ trước khi phẫu thuật và thực hiện ca mổ đúng đắn thì kết quả phẫu thuật sẽ rất mỹ mãn dù không thể tránh khỏi bị sẹo vốn là nhược điểm chính của loại phẫu thuật này.

Xét một cách toàn diện thì không nên đặt nặng vấn đề rủi ro, nhưng bệnh nhân vẫn nên hiểu rằng bất kỳ cuộc phẫu thuật nào, dù chỉ là tiểu phẫu, cũng luôn tiềm ẩn những yếu tố không lường trước và không xác định trước được.

Một điều mà bệnh nhân có thể an tâm là một bác sỹ giải phẫu thẩm mỹ giỏi, giàu kinh nghiệm sẽ biết cách tránh cho biến chứng xảy ra hoặc nếu xảy ra, sẽ biết cách xử lý một cách hiệu quả nếu cần.

Hãy chia sẻ với chúng tôi những cảm nghĩ của bạn.

Những thông tin trong tài liệu này sẽ được cập nhật thường xuyên.

Chúng tôi rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp từ phía quý bệnh nhân để tài liệu này được hoàn thiện hơn.  Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về: Hội đồng Hướng dẫn và Giáo dục Bệnh nhân, Bệnh viện FV, số 06 Nguyễn Lương Bằng, Nam Sài Gòn (Phú Mỹ Hưng), Quận 7, Tp.HCM, Việt Nam.

E-mail: patient.education@fvhospital.com